Thứ Ba, 16 tháng 6, 2020

Tâm đố kỵ hại mình hại người xuất phát từ đâu? Chiết tự chữ Hán cho câu trả lời

Tâm đố kỵ hại mình hại người xuất phát từ đâu? Chiết tự chữ Hán cho câu trả lời https://ift.tt/3d4Mkxo

Mỗi chữ Hán chính thống đều là cánh cửa mở ra không gian vô hạn của văn hóa Thần truyền. 

Cổ nhân đã mang nội hàm của vũ trụ và vạn vật mà họ quan sát và thể ngộ được để dung nhập vào quá trình tạo ra chữ viết. Trong xã hội hiện đại với nhân tâm, đạo đức suy đồi, nhiều vấn đề rối loạn phát sinh, Hán tự có thể giúp chúng ta tìm về suối nguồn trí huệ của cổ nhân, có được chỉ dẫn để đạt đến thân tâm an lạc. Hôm nay, chúng ta hãy cùng khám phá bản chất của tâm đố kỵ thông qua chiết tự chữ Hán của từ “Tật đố" (nghĩa là ghen ghét, đố kỵ).

“Tật đố” (嫉妒) là một từ ghép, trong đó cả hai từ đơn “Tật" (嫉) và “Đố" (妒) đều có ý nghĩa là ghen ghét, đố kỵ. Một điểm đặc biệt dễ nhận thấy là hai chữ này đều có bộ Nữ (女) đứng đầu, khiến một số người cho rằng tâm tật đố thường có ở nữ giới, là đặc trưng của nữ giới. Có thật vậy không? Theo thiển ý của người viết, có lý nhưng không hẳn là như vậy, vì nam giới có tâm tật đố cũng rất nhiều.

Theo truyền thuyết, Thân Công Báo là một vị tiên nam của Xiển Giáo, vô cùng đố kỵ với Khương Tử Nha, vì ông ta cho rằng mình tài giỏi như vậy mà Nguyên Thuỷ Thiên Tôn không chọn mình, lại chọn Tử Nha đi phong Thần. Thân Công Báo vì tật đố không chịu được nên dẫn động rất nhiều đệ tử Triệt giáo đi phò Trụ Vương, phá hoại Khương Tử Nha, cuối cùng bị vùi vực xoáy Bắc Hải. Thời nay, cựu Bí thư ĐCSTQ Giang Trạch Dân cũng vì đố kỵ với đại sư Lý Hồng Chí mà phát động cuộc bức hại lên những người tu luyện Pháp Luân Công, đúng là thiên lý bất dung.

Vậy bộ Nữ (女) liên tiếp xuất hiện trong từ “tật đố" muốn nói điều gì? Chữ Nữ này ngoài ý nghĩa là đàn bà, con gái ra, còn có nghĩa là non, nhỏ, yếu đuối. Thi Kinh viết: “Ỷ bỉ nữ tang”, nghĩa là “Cây dâu non yếu thì buộc (cho vững khi hái lá)”. Người viết bạo dạn cho rằng người có tâm tật đố kỳ thực là những người yếu đuối, tâm hồn họ còn non nớt, chưa trưởng thành, chưa đủ chính trực. Trước sự mỹ hảo, ưu tú, hay hạnh phúc và vinh dự của người khác, tâm họ không thể giữ vững, cảm thấy khó chịu, bất bình. Đó chính là lòng đố kỵ.

Nhìn kỹ vào từng chữ, thì chữ “Tật" (嫉) gồm bộ Nữ (女) và chữ Tật (疾) chỉ ốm đau bệnh tật hoặc thống khổ ghép thành. Như vậy, cổ nhân nhìn nhận tâm tật đố chính là một loại bệnh, chứng bệnh này khiến người ta ăn không ngon, ngủ không yên, không thể nào ung dung tự tại. Đã là bệnh thì nó quyết không phải là bản tính chân thật của chúng ta, bản tính của con người là khoan dung lương thiện. Vậy cái gốc của bệnh tật đố là ở đâu?

Ảnh minh họa: Shutterstock.

Chữ Tật (疾) cấu thành bởi bộ Nạch (疒) chỉ tật bệnh và bộ Thỉ (矢) nghĩa đen là cung tên, nghĩa bóng là công kích người khác, ăn nói hàm hồ. Phải chăng, điều này muốn nói nguồn gốc sâu xa của tâm tật đố chính là tâm tranh đấu? Một người ôm giữ tâm tranh đấu, hiếu thắng, ganh đua ở trong lòng, thì sẽ luôn nhìn vào người khác, thấy người khác có gì tốt thì lo lắng sinh bệnh. Hoặc hiểu theo nghĩa ngược lại, một kẻ hay ganh ghét thì sẽ nói xỏ nói xiên, đả kích người khác, mục đích là hạ thấp người khác, nâng cao bản thân mình.

Chữ thứ hai là chữ “Đố” (妒), gồm bộ Nữ (女) và bộ Hộ 戶 (nhà cửa, hộ gia đình) hợp thành. Để ý kỹ, ta sẽ thấy người phụ nữ này đang ở bên ngoài ngôi nhà của mình, không ở trong gia đình mình, hoặc là có một người phụ nữ khác ở ngoài gia đình. Nho gia cho rằng đây là một điều bất thường, là mầm mống sinh loạn. Trong khi đó, chữ An (安) nghĩa là yên ổn, an bình, vẽ một người phụ nữ (bộ Nữ 女) ở dưới mái nhà (bộ Miên 宀), hàm ý rằng người phụ nữ hiền thục giữ trọn bổn phận trong ngôi nhà của mình thì đó mới là “an”. Nếu người nữ xuất hiện ở bên ngoài hộ gia đình thì chính là chữ Đố (妒), tương đương với bất an. Từ cách viết hai từ này mà ta có thể hiểu rằng, đố kỵ với người khác thì chính mình không được an ổn.

Cũng có thể hiểu rằng, tâm tật đố xuất phát từ việc một người không an phận, truy cầu quá phận. “An phận" thực ra không xấu như nhiều người vẫn nghĩ, nó có nghĩa là “luôn tuân thủ bổn phận, không có hành động trái đạo lý”. Người xưa nói: “Sinh tử hữu mệnh, phú quý tại thiên", vậy nên nếu mệnh mình không có thứ gì thì không thể cưỡng cầu mà được. Con người nên vui với bổn phận, không ngừng tu dưỡng bản thân mới là cách sống tốt nhất.

Trong xã hội ngày nay, tâm tật đố xuất hiện rất phổ biến. Người ta tuy chẳng nói ra, nhưng so bì tị nạnh nhau từ cái ăn, cái mặc, đến vợ chồng, con cái, rồi nhan sắc, địa vị công danh… Vì tật đố nên người ta không nhìn mặt nhau, nói xấu nhau, thậm chí bày mưu hãm hại nhau, khiến thân tâm không phút nào yên ổn. Tranh đua nhau vì những vật chất bên ngoài đó thì vĩnh viễn không có được hạnh phúc thực sự. “Đệ tử quy" có viết:

“Chỉ đức học, chỉ tài nghệ
Không bằng người, phải tự gắng.
Nếu quần áo, hoặc ăn uống
Không bằng người, không nên buồn”.

Nếu muốn so sánh với người khác, thì hãy nên so sánh về đức hạnh, đức hạnh mình còn thua kém thì mau chóng nỗ lực tu thân. Hoàng đế Khang Hy từng giáo huấn các hoàng tử về tâm tật đố rằng:

“Nói chung người ta phải giữ mình mà xử thế, cần phải có khoan dung ở trong tâm. Thấy người gặp việc đắc ý, thì nên sinh tâm vui mừng. Thấy người gặp việc thất ý, thì nên sinh tâm cảm thông. Đây đều là chỗ khiến bản thân được thoải mái thực sự. Nếu như đố kỵ với thành công của người khác, vui mừng trước thất bại của người khác, thì nào có ích chi? Chỉ là khiến tâm của mình xấu đi mà thôi. Cổ ngữ nói: ‘Thấy cái được của người khác, như tự mình đắc được vậy. Thấy cái mất của người khác, như chính mình bị mất vậy’. Nếu như trong tâm được như vậy, thiên thượng nhất định sẽ bảo hộ loại người này”.

«Đình huấn cách ngôn»

Hán tự đúng là suối nguồn trí huệ của cổ nhân, hậu thế chúng ta được đắm mình trong đó quả là muôn phần may mắn!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét