“Tào Man thua chạy đến Hoa Dung
Khéo đâu đường hẻm gặp Quan Công.
Chỉ vì tình nghĩa còn ghi tạc,
Nên để rồng tù thoát xuống sông”.
Mùa đông năm Kiến An thứ 13 (tức năm 208), sau thất bại nặng nề ở Xích Bích, Tào Tháo dẫn tàn quân chạy trốn khỏi sự truy sát của liên quân Tôn-Lưu. Trong Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung miêu tả hành trình trốn chạy của quân Tào khổ cực khôn xiết, vừa hoảng sợ, vừa đói rét, lôi thôi lếch thếch qua năm lần bảy lượt chạm trán các tướng của Tôn Quyền và Lưu Bị, đến hẻm Hoa Dung thì Tào Tháo “chỉ còn hơn ba trăm quân mã, quần áo tả tơi”. Quan Vân Trường nhận lệnh chặn Tào Tháo ở Hoa Dung, nếu ra tay thì có thể dễ dàng triệt hạ giặc Tào, nhưng cuối cùng ông đã vì đền nghĩa xưa mà tha cho Tào Tháo.
Gia Cát Lượng rất giỏi nhìn người, trù mưu tính kế như Thần, ông đã biết trước Quan Công nhất định sẽ nhớ ân nghĩa xưa mà thả Tào Tháo. Vậy vì sao Khổng Minh còn để Vân Trường trấn ở hẻm Hoa Dung? Hơn nữa lại còn bắt ký tờ quân lệnh trạng, cam đoan rằng nếu để sổng Tào Tháo sẽ xử theo quân luật (chém đầu)?
Có nhận định cho rằng Gia Cát Lượng cố ý tha mạng cho Tào Tháo, vì nếu Tào Tháo chết thì toàn bộ miền bắc Trung Quốc có thể sẽ trở nên hỗn loạn. Tôn Quyền khi đó có thể nhân cơ hội này đánh úp Lưu Bị để chính thức bình định miền nam. Trong khi đó, để Tào Tháo sống sót trở về sau trận Xích Bích sẽ làm tiền đề cho thế chân vạc hình thành, có lợi cho Lưu Bị. Cách lý giải này cũng được đưa vào lời Gia Cát Lượng trong phim truyền hình “Tam quốc diễn nghĩa” (1996), nhưng trong nguyên tác Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thì không nói như vậy.
Bài viết này xin mạn phép đưa ra một góc nhìn, một cách lý giải khác về tình tiết Quan Công tha Tào Tháo ở Hoa Dung, vốn nằm trong dự liệu của quân sư Gia Cát. Người xưa cho rằng “Văn dĩ tải Đạo", một kiệt tác như Tam quốc diễn nghĩa lại càng có tầng tầng lớp lớp nội hàm, đạo lý sâu xa. Vì thế nên đây có lẽ chỉ là chút nhận thức hạn hẹp, ngõ hầu học hỏi cái đức của người xưa và chia sẻ cùng bạn đọc hôm nay.
Ý Trời
Sau khi Khổng Minh đăng đàn cầu được gió đông nam, đoán trước được ý đồ mưu sát của Chu Du nên đã sớm lên thuyền theo Triệu Tử Long về bên Lưu Bị. Ngay khi về đến Hạ Khẩu, Khổng Minh đã cắt đặt quân sĩ đón đường trốn chạy của Tào Tháo, các tướng Triệu Vân, Trương Phi, My Chúc, My Phương, Lưu Phong, Lưu Kỳ lần lượt đều được giao nhiệm vụ cả.
“Bấy giờ, Vân Trường đứng cạnh, Khổng Minh không đả động gì đến. Vân Trường không sao nhịn được, nói to lên rằng:
- Tôi từ khi theo anh tôi đi đánh dẹp đến nay kể cũng đã lâu, chưa khi nào tôi phải lùi lại sau. Nay gặp trận đánh to thế này, không thấy quân sư hỏi han gì đến là ý làm sao?
Khổng Minh cười, nói:
- Vân Trường đừng trách, tôi muốn nhờ tướng quân giữ cho một chỗ hiểm yếu, nhưng còn hơi ngại một chút, chưa dám phiền đến.
Vân Trường nói:
- Nghi ngại điều gì, xin cho tôi biết?
Khổng Minh nói:
- Khi xưa, Tào Tháo đãi tướng quân hậu lắm, thế nào tướng quân chẳng nhớ ơn. Nay Tào Tháo thua trận, tất chạy qua đường Hoa Dung. Nếu sai túc hạ đi, tất nhiên túc hạ tha cho hắn thoát, bởi thế, chưa dám phiền tới.
Vân Trường nói:
- Quân sư nghĩ thế, thật là có bụng tốt. Khi xưa Tào Tháo có trọng đãi tôi. Nhưng tôi đã chém Nhan Lương, Văn Sú, giải vây thành Bạch Mã để báo ơn rồi. Nay nếu có gặp y, tôi đâu dám dễ dàng tha y được.
Khổng Minh nói:
- Nếu tướng quân tha thì làm sao?
Vân Trường nói:
- Xin theo quân luật.
Khổng Minh nói:
- Nếu thế, phải làm giấy cam đoan.
Vân Trường xin ký giấy cam đoan, rồi hỏi lại rằng:
- Tào Tháo không chạy qua đường ấy, thì quân sư dạy thế nào?
Khổng Minh nói:
- Tướng quân nên tìm trái núi nào cao ở đường hẻm Hoa Dung, chất cỏ đốt lửa lên, để dử quân Tào đến.
Vân Trường nói:
- Tào Tháo thấy có lửa, biết có mai phục, sao hắn chịu đến?
Khổng Minh cười, nói:
- Tướng quân không nhớ trong binh pháp có câu “Hư hư thực thực” đó ru? Tháo giỏi dùng binh, có thế mới lừa được hắn. Hắn trông thấy lửa, cho là ta hư trương thanh thế, tất nhiên tìm đến lối đó. Tướng quân không được thả cho hắn đi!
Vân Trường lĩnh mệnh dẫn Chu Thương, Quan Bình và năm trăm quân đao phủ ra đường Hoa Dung mai phục.
Huyền Đức nói nhỏ với Khổng Minh rằng:
- Em tôi là người nghĩa khí lắm. Nếu Tào Tháo quả nhiên đi qua đó, chỉ sợ em tôi lại tha mất thôi!
Khổng Minh thưa:
- Tôi xem thiên văn, biết số Tào Tháo chưa chết, nên mới để một mối tình nghĩa ấy cho Vân Trường làm, cũng là một việc hay.
Huyền Đức nói:
- Tiên sinh mưu kế như thần, trên đời hiếm có!”.
Lý do thực sự chính là Khổng Minh đã biết mệnh Trời chưa tuyệt với Tào Tháo. Ý Trời còn để Tháo sống, để diễn tiếp màn kịch lịch sử tam phân thiên hạ, nên dẫu thiên binh vạn mã cũng không đoạt nổi mạng họ Tào.
Gia Cát Lượng là người tu Đạo, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, trong Tam quốc diễn nghĩa nhiều lần ông trực tiếp nói ra sự tin tưởng vững chắc ở mệnh Trời. Trước đó, khi Chu Du bày mưu lệnh cho ông phải chuẩn bị xong mười vạn mũi tên trong thời gian ngắn, Gia Cát Lượng đã dùng kỳ kế “Thuyền cỏ mượn tên" khiến Lỗ Túc và Chu Du phải kinh ngạc và bội phục. Khổng Minh nói:
- Công Cẩn hạn cho ta mười ngày, mà thuyền thợ, đồ dùng không có gì đủ, chực đem một tội lỗi nhỏ để hại ta; nhưng số mệnh ta đã có Trời, hại làm sao nổi!
Hay như sau này, lúc Nguỵ Diên đã dử được Tư Mã Ý vào hang có phục sẵn địa lôi và các đồ dẫn hoả, trời bỗng dưng trút cơn mưa, Tư Mã Ý thoát chết, Khổng Minh nói:
- Mưu việc tại người, thành việc tại Trời, không sao cưỡng được!
Và lúc Nguỵ Diên làm tắt mất ngọn chủ đăng trong lễ dâng sao giải hạn, cầu gia tăng thọ mạng của chính mình, Khổng Minh không hề oán giận Nguỵ Diên, chỉ nói:
- Sống chết có số, không làm sao mà nhương trừ được! ; và:
- Đó là số ta đến ngày hết, không phải lỗi tại Văn Trường.
Gia Cát Lượng trong lịch sử quả thực là người có khả năng nhìn thấu mệnh Trời. Bộ dự ngôn nổi tiếng “Mã Tiền Khoá” của ông dự báo các sự kiện trọng đại bắt đầu từ thời Thục Hán, một mạch đến Trung Hoa Dân Quốc và cả về sau, phi thường chuẩn xác. Ngay trong khóa đầu tiên của Mã Tiền Khóa, Gia Cát Lượng đã biết trước Thục Hán cuối cùng bị nước Ngụy tiêu diệt. Biết là như vậy, nhưng ông vẫn quyết định xuống núi phò tá Lưu Bị để đền ơn tri ngộ, để đảm nhận vai diễn lịch sử trung nghĩa tận tuỵ này. Đọc Tam quốc diễn nghĩa, ta thấy Khổng Minh suốt một đời ung dung tự tại, trong khảo nghiệm sinh tử và cọ xát tâm tính, ông luôn giữ thái độ bình tĩnh, thản nhiên, là bởi ông từ lâu đã nhìn thấu ý Trời.
Văn hoá truyền thống phương Đông là tôn kính Trời, người có quyền lực cao nhất là hoàng đế cũng chỉ tự nhận mình là “Thiên tử", tức là con của Trời, phải thuận theo ý Trời mà hành sự. Đó là nền văn hoá khiêm cung lễ nhượng, nhận thức đúng đắn về vị trí của con người trong vũ trụ. Con người là một tế bào nhỏ trong cơ thể vũ trụ rộng lớn; vũ trụ có quy luật vận hành, là điều mà các pháp môn tu luyện xưa nay gọi là “Đạo", là “Pháp". Người tu Đạo chính là thuận theo quy luật của vũ trụ mà tu sửa bản thân, hiểu được ý Trời, làm người làm việc có đạo đức. Gia Cát Lượng kỳ tài cái thế, mưu trí siêu quần, nhưng ông biết mình vĩnh viễn không thể trái lại ý Trời. Vì Trời cao có an bài của Trời cao, dụng ý sâu xa có lẽ đến nhiều nghìn năm sau con người mới hiểu thấu.
Đạo người
Vì ý Trời còn để Tào Tháo sống, nên Khổng Minh sắp đặt cho Vân Trường chặn ở hẻm Hoa Dung rõ ràng là để trả ân nghĩa xưa. Ai cũng biết Quan Công là người trọng nghĩa, nên dễ dàng dự đoán được ông sẽ vì báo ân mà tha cho Tào Tháo một con đường sống. Thế nhưng vì sao Khổng Minh phải giả vờ không ngó ngàng gì đến Vân Trường, ra vẻ nghi ngại, lại còn khéo bắt ký tờ quân lệnh trạng? Vậy chẳng phải là ép Quan Công vào chỗ chết sao?
Thực ra, Gia Cát Lượng biết Lưu Bị cùng Quan Vũ, Trương Phi kết nghĩa đào viên, thề cùng sống chết, nên Lưu Bị nhất định sẽ cầu xin không để Vân Trường phải chịu chém. Gia Cát Lượng khéo khiến Quan Công ký tờ cam kết, chính là muốn ông dùng cả tính mệnh của mình để trả ơn Tào Tháo. Ký tờ quân lệnh trạng này nghĩa là nếu tha cho họ Tào, Vân Trường cam tâm tình nguyện chịu chết. Có vậy thì cái ơn xưa không truy đuổi Quan Công qua năm ải chém sáu tướng mới đền đủ, có vậy thì tấm lòng đại nghĩa của Quan Công mới sáng tỏ với đất trời.
Trích hồi 50, Tam quốc diễn nghĩa:
“Tháo lại sợ sau lưng có quân đuổi theo, sai Trương Liêu, Hứa Chử, Từ Hoảng dẫn một trăm lính kỵ, tuốt gươm cầm sẵn trong tay, tên nào chậm chạp thì chém. Lúc này, quân sĩ đều đói mệt, lăn queo ra đường. Tháo thét người ngựa giẫm lên trên mà đi, chết hại không biết bao nhiêu, tiếng kêu khóc vang cả đường sá.
Tháo giận, nói:
- Sống chết có số, việc gì mà phải khóc? Hễ đứa nào khóc nữa thì chém!
Trong ba toán quân mã, một toán ở lại sau, một toán đi trước đắp đường, lấp hố, còn một toán đi kèm với Tào Tháo. Đi khỏi quãng hiểm trở, ra đến đường cái phẳng phiu hơn. Tháo ngoảnh lại thấy chỉ còn hơn ba trăm quân mã, quần áo tả tơi. Tháo giục đi cho mau. Các tướng thưa:
- Người ngựa kiệt sức quá rồi, xin cho tạm nghỉ một chút!
Tháo nói:
- Đến hẳn Kinh Châu, sẽ nghỉ cũng vừa!
Lại đi được độ vài dặm. Tháo ngồi trên ngựa, giơ roi cười sằng sặc lên. Các tướng hỏi:
- Thừa tướng lại cười gì thế?
Tháo nói:
- Người ta khen Chu Du, Gia Cát Lượng lắm mưu nhiều trí nhưng theo ta, chỉ là lũ xoàng thôi. Nếu họ phục sẵn một toán quân ở đây, thì chúng ta đành khoanh tay chịu trói cả.
Tháo nói chưa dứt lời, tiếng pháo đâu lại nổ lên đùng đùng, hai bên năm trăm quân đao phủ dàn ra, đi đầu là Quan Vân Trường cầm thanh long đao, cưỡi ngựa xích thố, chắn ngang đường đi. Quân Tào nhìn thấy, ba hồn bảy vía lên mây cả, ngơ ngác nhìn nhau, Tháo bảo các tướng rằng:
- Đã đến đường đất này, chỉ còn liều chết mà đánh thôi!
Các tướng nói:
- Người tuy còn có thể địch nổi, nhưng ngựa thì đã kiệt sức quá rồi, đánh sao được nữa?
Trình Dục nói:
- Tôi vẫn biết Vân Trường vốn kiêu ngạo với người trên, nhưng không chấp kẻ dưới; coi thường người khoẻ, nhưng không nỡ hiếp người yếu; ân oán phân minh, tín nghĩa rõ ràng. Thừa tướng khi xưa có ân tình với ông ấy, nay nên thân ra kêu cầu, hoạ may mới thoát được nạn này.
Tào Tháo nghe lời, tế ngựa ra nghiêng mình nói với Vân Trường:
- Tướng quân lâu nay vẫn mạnh khoẻ chứ?
Vân Trường cũng nghiêng mình đáp lại:
- Tôi phụng mệnh quân sư, đợi thừa tướng ở đây đã lâu.
Tháo nói:
- Tháo tôi thua trận, thế nguy, đến đây không còn đường nào nữa. Xin tướng quân nghĩ đến tình nghĩa khi xưa làm trọng.
Vân Trường nói:
- Trước đây, tôi tuy đội ơn sâu của thừa tướng, nhưng đã chém Nhan Lương, Văn Sú, giải vây thành Bạch Mã, để đền đáp rồi. Còn việc hôm nay tôi đâu dám vị chút tình riêng mà bỏ việc công cho được.
Tháo nói:
- Thế tướng quân còn nhớ đến việc qua năm cửa ải chém sáu tướng không? Đại trượng phu phải trọng điều tín nghĩa. Tướng quân thông hiểu sách Xuân thu, há không biết việc Dữu Công Chi Tư đuổi theo Tử Chạc Nhụ Tử đó ư?
Vân Trường xưa nay vẫn là người trọng nghĩa, nhớ đến ân tình Tào Tháo khi xưa đãi mình rất hậu và việc ra khỏi năm cửa ải chém sáu tướng, không khỏi động lòng. Vả lại, trông thấy quân Tào đứa nào cũng rơm rớm nước mắt, đứng run cầm cập, lòng càng không nỡ. Bởi thế, quay ngựa lại bảo quân sĩ rằng: “Bốn mặt giãn cả ra!” rõ ràng có ý tha cho Tào Tháo. Tháo thấy vậy, liền cùng với các tướng kéo ồ cả đi. Vân Trường quay ngựa lại, thì Tào Tháo đã đi qua rồi. Vân Trường quát to lên một tiếng, quân Tào vội xuống ngựa, quỳ lạy, sụt sùi khóc lóc. Vân Trường càng không nỡ, còn đang do dự thì Trương Liêu tế ngựa vừa đến. Vân Trường lại nhớ đến tình bạn cũ, thở dài một tiếng, thả cho đi hết”.
Vân Trường là người như thế đó - ân oán phân minh, tín nghĩa rõ ràng. Ông là điển hình cho quan niệm đạo đức của người xưa, có ân phải báo, dầu thịt nát xương tan cũng nguyện lòng. Nếu như trước kia vì trung nghĩa với Lưu Bị, ông treo ấn gói vàng ra khỏi Tào doanh, vượt năm quan chém sáu tướng để trở về bên huynh trưởng; thì giờ đây vì ân nghĩa với Tào Tháo, ông sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình để cho đối phương một con đường sống. Đó chính là:
“Cũng liều một chết đền ơn cũ,
Nên để nghìn thu nức tiếng thơm”.
Nếu như Tào Tháo được sống là ý Trời, thì Quan Công liều chết đền ơn là đạo người. Người xưa giảng “Thiên nhân hợp nhất", câu chuyện Quan Công thả Tào Tháo ở hẻm Hoa Dung chính là sự hài hoà giữa thiên ý và nhân đạo. Gia Cát Khổng Minh đã khéo lợi dụng cơ duyên này để hợp nhất cái đạo làm người trung nghĩa của Quan Công với ý đồ đạo diễn vở kịch Tam quốc phân tranh của Thiên Thượng. Trong vở kịch lớn ngót trăm năm ấy, ba thế lực ganh đua nhau với bao thăng trầm, hỷ nộ, vốn chỉ để diễn dịch cho người đời sau nội hàm của chữ Nghĩa. Vì thế nên gọi là “Tam quốc diễn nghĩa"...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét